Tổn thương do bệnh vảy nến
- Đặc trưng của bệnh là sự tăng sinh thượng bì, sự tăng sinh này luôn lành tính và thường kết hợp với sự rối loạn biệt hóa tế bào và sự sản xuất một số Cytokine, dẫn đến một tiến trình viêm. Kết quả của sự tăng sinh thượng bì tạo nên một lớp vảy dày và sự bong vảy không ngừng.
Vảy nến dạng phấn hồng
- Tổn thương cơ bản
- Lớp vảy: có giới hạn rõ, màu trắng bẩn, đục hay vàng óng ánh như mica. Lớp vảy có thể che phủ toàn bộ tổn thương vảy nến hoặc chỉ phủ ở phần trung tâm. Bề mặt của vảy đôi khi không đều, lớp vảy được cấu tạo bởi những phiến vảy mỏng, khô, kích thước và độ dày khác nhau, tách ra tự nhiên hay do va chạm khi thay áo quần.
- Đặc trưng bởi những dát hay mảng, giới hạn rõ, màu đỏ, được phủ bởi lớp vảy dày.
- Ngứa: thường gặp với 25% trường hợp.
- Dùng thìa nạo cạo nhẹ trên bề mặt các tổn thương vảy nến từ 30 – 150 lần, ta sẽ thấy lần lượt các dấu hiệu sau: vết đèn cày; dấu vảy hành; giọt sương máu
- Đỏ da: lớp da đỏ có giới hạn rõ, nhẵn, khô, biến mất khi đè, mềm và hơi gồ lên so với xung quanh.
- Vị trí khu trú: tổn thương khu trú khắp cơ thể, có tính đối xứng, nhưng hay gặp nhất là vùng tỳ đè: khuỷu tay, đầu gối, vùng thắt lưng cùng và đầu.
Vảy nến dạng đỏ toàn thân
Tiến triển bệnh vẩy nến
- Vảy nến là bệnh da khó điều trị, tiến triển từng đợt và thường tái phát. Những giai đoạn khỏi bệnh kéo dài từ vài tháng đến vài năm làm người bệnh nghĩ là bệnh đã lành hẳn, đôi khi giữa các đợt tái phát vẫn còn ít tổn thương ở đầu gối, khuỷu tay và đầu gọi là thành trì của vảy nến.
- Sự thoái lui của bệnh vảy nến theo nhiều cách khác nhau, có thể lành ở trung tâm tổn thương nhưng bờ lại lan rộng . Thương tổn vảy nến khi thoái lui thường không để lại sẹo nhưng để lại những dát giảm sắc, đôi khi là những dát tăng sắc được bao quanh bởi một vòng trắng da.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét